LŨNG PHÌN, ĐỒNG VĂN – DẢI ĐẤT TRÀ HUYỀN THOẠI (P2)

Về Sài Gòn, tôi thử trà, so mẫu, cân nhắc điều kiện chế biến của cụ già với hai hộ gia đình khác ở Lũng Phìn. Trà cụ làm được cháu gái sao khô, lên hương khâu sau rất đáng đầu tư nghiêm túc, thêm kỳ vọng tay nghề của cụ điêu luyện hơn nên tôi có nhiều câu hỏi cần làm sáng tỏ đồng thời tiếp tục việc thử mẫu trước khi quyết định chọn lựa sản phẩm cho mình. Xuân năm sau, liên hệ lại người cháu nhờ anh giúp làm cầu nối trao đổi với cụ thì nhận được tin rằng cụ sức khỏe yếu, không qua khỏi mới mất đầu năm. Nghe như sét đánh ngang tai, một con người sao trà tuyệt vời đất Lũng Phìn đã ra đi, tôi mới chỉ lại gần chưa kịp chạm tay. Một điều tiếc nuối bâng khuâng nghẹn lòng!

Không biết phải làm gì, dường như gần về vạch xuất phát, có lẽ lại bắt đầu cuộc tìm kiếm mới. Tôi có linh cảm tốt về vùng trà này trước khi thực hiện chuyến đi, lấn cấn lo nhẹ vì sao núi đá cằn cỗi vậy trà mọc nổi đây. Nhưng sau khi chứng kiến công việc sao chảo khó khăn chừng nào, lúc nhấp miệng miếng trà cảm hương vị, tôi có một niềm tin mạnh mẽ đây là vùng đất trà huyền thoại từ sự nỗ lực vươn lên trên cùng hoàn cảnh khắc nghiệt của thiên nhiên, khiến tôi cần phải kiên trì, theo đổi bằng được mục tiêu của mình. Một phần chưa nguôi ngoai, tiếc mãi nguồn trà ngon rất gần bay vuột mất, một phần lượng công việc diễn tiến xoay chuyển khá bận, có rất nhiều việc cần phải làm, những vùng trà khác nhau cần được phân bổ thăm ghé, chăm sóc và phát triển chất lượng trà, tôi vẫn nóng lòng không đợi nổi tới lúc trở lại, tôi gọi anh Pó lần nữa gợi ý xem vợ anh có thể làm trà được không? Rõ ràng chị có sức làm việc bền bỉ, sự chịu đựng sắt đá phù hợp với công việc này. Anh đáp không được, nhà chỉ có mình chị lo trông nom hai đứa trẻ con, lợn gà cám bã, trồng ngô cắt cỏ quay mòng suốt ngày, anh bận công vụ hay đi khắp xã huyện. Tôi chuyển hướng hỏi trong xã có ai có khả năng làm trà ngon, anh biết một chị người quen bà con xa. Ngẫm thấy bà con vùng cao rất hay, cứ phải hỏi chính xác, thổ lộ rõ yêu cầu chứ nhiều khi họ không nhanh nhạy cung cấp thông tin khi tìm hiểu một vấn đề nào đó. Không phải họ thờ ơ với câu chuyện, với mình mà họ vốn sống vô tư, không mưu cầu quá nhiều, dễ cười, dễ chấp nhận, chan hòa xung quanh. Kinh nghiệm nhỏ là phải lao tới áp sát, vui vẻ đừng tính toán thiệt hơn, từ từ sẽ đơn giản đi rất nhiều.

Lập tức liên hệ với một người làm trà mới – người đồng bào H’mông Trắng sinh ra lớn lên trên mảnh đất Lũng Phìn – tôi nói chuyện với chị với cả chồng chị nữa, giới thiệu bản thân, sự hiểu biết ban đầu và những gì mình đi qua, đạt được trong chuyến đi năm cũ, hỏi quá trình chị bắt đầu công việc như thế nào, lâu chưa, học ai sao trà, trà chị ngon không, ai bảo ngon….? Tôi nhận mẫu một tuần kế tiếp, chưa được như mong muốn song tốt hơn hai hộ trước tôi thử. Có điều tôi thấy thái độ chị rất trung thực, cầu tiến, chẳng từ chối nếu tôi thắc mắc ngang dọc, hỏi han sâu thêm.  Tôi tiếp tục chia sẻ, góp ý một số lỗi nhỏ của trà, đề nghị một vài phương án khắc phục dựa trên điều mình biết. Thậm chí, có nhiều thứ tôi không biết nói sao, chỉ diễn tả theo ý hiểu ngô nghê của mình cái tôi muốn đạt được, còn anh chị cần tìm cách làm ra kết quả như thế. Chị có lúc bắt sóng lờ mờ, từ đó dò dẫm cách này cách kia thử nghiệm, cứ thế một năm cải tiến kỹ thuật, trà ngon lên trông thấy. Con đường dòng trà xanh Lũng Phìn phát triển có thể tiến xa hơn nữa, không phải chuyện một sớm một chiều.

Tôi chính thức đặt trà cây cổ thụ già, chuyên sao chảo gang củi lửa. Trà này sao sấy vất vả, tốn nhiều thời gian, công sức, giá thành cao hơn khó bán chạy, sức người làm liên tục không xuể dễ sinh chán nản. Với suy nghĩ muốn chị làm nhiều nhuần nhuyễn, chú tâm nâng cao tay nghề, bớt áp lực đầu ra, tôi hứa ngoài lượng đặt hàng ban đầu, chị áng chừng lượng khách quen mua, còn lại thừa bao nhiêu tôi sẽ lấy hết toàn bộ, giảm phần nào gánh nặng cho chị.

Năm 2016, tôi thấy đến lúc quay lại Lũng Phìn, cho một điều mới mẻ, chạm đúng thời điểm. Giờ tôi sắp thành ma rừng rồi, tự bắt xe khách dọc tuyến chính, tới vùng trung tâm vùng trà thuê xe máy len lỏi vào rừng trà, cơ động đi đường mòn thuận tiện hơn rất nhiều, tiết kiệm thời gian, giữ sức mình, lúc khó quá thâm nhập vùng lõi hiểm trở là nhờ ngay người bản địa am hiểu dẫn mình đi. Ba năm sau, mảnh đất này khác trước ít nhiều, vài ngôi nhà mới xây, đường rộng hơn, quán xá hàng họ bày biện khu ngã ba chợ, nhà bên đường toàn lắp đèn cảm ứng, đi trong đêm sáng tối bất ngờ. Chúng tôi 3 người thồ nhau trên chiếc xe wave trắng phi lên thăm rừng trà cổ thụ, ghé ngang nhà cũ cụ già mù năm xưa trò chuyện với người nhà cụ một lát, thăm khu trà mới trồng sau này và một khu trà cổ thụ lân cận gần đó.  Bữa chiều ăn xong, chúng tôi bắt tay vào công việc luôn, ngạc nhiên đầu tiên là ngoài củi lớn nhóm lửa chính, nhiều khi chị lười đẩy vào vỏ lõi ngô đốt lửa cháy nhanh, thấy thế tôi giật thót mình, sợ bùng lửa lên cao cháy trà mất, ấy vậy mà chị canh lửa, tháo củi ra vào rất tài tình. Như vậy tôi biết chị gái này siêng năng, cần cù lắm, đôi khi được cũng có tí lười nhẹ xen vào.

Chị làm từ đầu tới cuối tầm 3 tiếng, từ lá trà xanh đổ chảo, diệt men, vò máy xong, đổ lại vào chảo gang sao khô lại dần dần. Nhìn thôi đã thấy mướt lắm rồi, đôi bàn tay chị cứ đảo lên đảo xuống, đảo qua đảo lại, mắt tôi căng ra nhìn từng chi tiết muốn ghi nhớ lại hết thảy công việc của chị. Cũng muốn thử làm mẻ trà khó nhằn này, tôi xin tự tay làm, tự nhủ mình không thể đứng ngoài cuộc lâu được. Than ôi! Sao chảo tức là xác định nhảy vào chảo lửa, dùng chính sức mình nhào nặn trên từng cọng lá búp trà, xoay vần tạo hình, được chạm, cảm nhận sức nóng vật lý một cách sống động, chân thực, thống khổ nhất. Lần trước sao lá trà đã khô tập tành không cẩn thận chạm bỏng tay, còn sao lá tươi khó khăn hơn bội lần, giống như đảo cơm, xào rau trực tiếp trên mồi lửa. Hơi nóng từ củi phầm phập, khói phả thẳng vào mặt vào mắt cay đỏ hoe, hơi nước bốc lên thốc vào thân mình xa xẩm mặt mày, sức nóng lá trà tươi thấm trực tiếp vào bàn tay nói hơi quá như nhúng vào nồi nước sôi. Lì lợm được khoảng 5 phút, răng môi mím chặt, chân tay người ngợm ngấm đòn, tôi muốn bỏ hết lại, không chịu nổi xìu luôn. Lần đầu thất bại thảm hại, tôi đực mặt ra xem chị làm tiếp. Hôm sau, tôi mua đôi găng tay dày tập tiếp, công nhận dù khá khó khăn với lửa khói rộp da và hơi nước nóng bỏng  tấn công, nhưng bàn tay đã thỏa mái đảo trà dễ dàng, trơn tru hơn. Bàn tay đeo găng được bảo vệ khỏi hơi nóng cũng mất đi cảm giác chân thực, thống khổ, khó phán đoán độ nóng thích hợp, sự biến đổi của lá trà qua từng giai đoạn, thiếu xúc chạm trực tiếp, cảm nhận kém tinh tế đi nhiều. Tôi vẫn tập sao trà chảo gang ở nhà chị hay hộ làm trà ở vùng khác nếu có cơ hội dù nhiều lần tay mỏi nhức tủy nhừ tử nằm quỵ thao thức không ngủ nổi. Tôi biết rõ vị trí và vai trò của mình, không sinh sống cố định tại chỗ vùng trà riêng rẽ nào, tôi không tập sao để trở thành người làm trà tài giỏi, tôi muốn hiểu và cảm nhận về lá trà biến đổi sâu sắc như thế nào qua cách thức, chế biến sản xuất biến tấu khác nhau, để từ đó tôi có thể giao tiếp với người nông dân làm trà theo ngôn ngữ của mình, tay chân cơ thể hay lối diễn tả dưới góc nhìn của trà, để sau cùng chúng tôi đạt được thành tựu tốt nhất trong khoảng thời gian ngắn nhất. Thú vị ở chỗ cùng một phương pháp chế biến, hai người trong một gia đình có thể tạo ra hai hương vị khác nhau một cách tình cờ không chủ đích. Chúng ta có thể đồng hóa họ theo ý tưởng áp đặt cá nhân, nhưng đôi khi hay hơn là để cho họ làm một cách tự nhiên những gì họ tin tưởng, hứng thú với sự cổ vũ nhiệt thành từ chúng ta.

Lần đi thực tế này giúp tôi phát hiện điểm khác lạ là sau khâu vò trà, đáng nhẽ chị sẽ đổ trà lên chảo sao tiếp thì chị chuyển sang quay bom cũng đốt lửa củi. Bom quay gắn động cơ tự chạy, không cần tác động trực tiếp từ tay chân con người liên tục, giảm tải sự lao lực xuống sức nhanh chóng. Điều này cho thấy tầm quan trọng của những chuyến thăm cọ sát hàng năm giúp tôi quan sát, thu thập thông tin quý giá, đối chiếu kết quả thực tế, tích lũy dần kinh nghiệm hoàn thiện sản phẩm. Tôi yêu cầu sao toàn bộ trên chảo gang, không cắt gọt, thử thêm 1-2 cách đảo trà, tời trà trên chảo, phân loại chọn ra những mẻ ngon nhất lưu lại. Một buổi sáng thảnh thơi pha trà mẫu thưởng thức, nói chuyện vui tôi hỏi anh chị:

Trà ngon không chị?

Có ngon lắm em ạ

Ngon hơn trước không chị?

Ngon hơn đấy

Ngon hơn nhiều không?

Hơn nhiều đấy

Chị có thích ngon như này không?

Ừ, làm như này thì ngon đấy

Sau này cứ làm thế này nhé ?

Chị im lặng, không nói gì, mặt lảng đi chỗ khác, rồi quay lại nhìn tôi cười trừ.

Về Sài Gòn, như người rừng tiến vào thành phố, mặt đen lem nhem mà tôi tự tin trong tay có bảo bối mới khoe bạn bè. Lúc pha trà bạn tôi bảo về nhà bỏ gói trà năm cũ thôi, uống sao nổi. Không phải bởi trà cũ đi mà vì gương mặt mới của trà năm đó quá ấn tượng: hương thanh thoát hơn, giàu hương khoáng thạch, khói củi đượm nhẹ bám thả chút tảo biển, lớp sau rêu núi đá ẩm, gỗ ướt; vị trà không chỉ rõ vị, sắc nét, sâu chất cổ thụ như trước, nó vươn cao hơn đến độ phóng khoáng lan rộng ngay khi nhấp miếng trà nhỏ, tỏa ra khoang miệng cuốn sâu trong cuống họng thăm thẳm bền vững. Nói ví von hình tượng hương và vị trà như đang tạo nên cuộc thẩm âm trong miệng người thưởng thức.

Tôi hay gọi điện, tỉ tê với chị, phản hồi ý kiến vui mừng của khách hàng về loại trà đặc biệt của chị, nhờ chồng chị tác động, phụ chị làm việc giữ sức suốt mùa vụ. Trà nhận đóng gói theo từng mẻ riêng, uống dầm dề ngày này tháng nọ hết mẻ này qua mẻ kia, tôi nhìn lá khô, lá ướt nước cuối, so sánh với kết quả chị cảm nhận ở nhà, tìm cách thúc đẩy sự ổn định đồng đều qua các mẻ trà, động viên chị cố gắng sao tay toàn bộ hết sức có thể, mệt quá mới được quay bom tối đa 10-15 phút, kẻo trà bớt ngon, như vậy uổng công chị leo cây hái trà lắm. Mỗi lần hỏi chị vẫn cười nhẹ hì hì như thường. Có lúc cầm túi trà mở ra biết sao bom quá với yêu cầu, tâm trạng vừa bực vừa buồn, không biết nói gì luôn.

Lâu lâu xuất thần bứt phá mẻ trà ngon lạ, thách thức làm sao duy trì sự xuất thần ấy, biến nó trở thành cái đương nhiên phải có mỗi ngày. Tôi vẫn thăm anh chị hàng năm, kỉ niệm và sự gắn bó giữa chúng tôi ngày một khăng khít.  Tôi nhớ một lần trong đêm khuy lấp lóa lửa bập bùng, tôi đờ đẫn, mệt mỏi sau cả tối xuyên đêm làm việc luôn tay luôn chân phụ anh chị. Tôi quay ra hỏi chị gì đó, hình như chị không nghe thấy, tay vẫn trên chảo sao đều đều theo quán tính, mắt chị nhắm lại lúc nào không hay, chị ngủ gật, tay cứ làm trong vô thức, người kiệt sức sau ba mẻ trà dài liên tiếp. Chị gục xuống nhẹ giật mình, xấu hổ nói:” chị mệt quá em ạ”. Tôi thần người, lòng trùng xuống, liệu có phải tôi đã không phải với chị, liệu tôi có quá đáng khi liên tục dội áp lực lên chị – người phụ nữ nhỏ bé, hồn nhiên, cần mẫn – để tạo nên loại trà đặc biệt theo mục tiêu lớn của mình!

Thời điểm đợi trà rộ thêm 1-2 ngày, ba người chúng tôi làm tour xe máy đi một đường vòng cung Lũng Phìn – Đồng Văn – Mèo Vạc nguyên ngày. Đi một cách vô định, ngồi chơi ăn uống, nhâm nhi uống trà trên phiến đá bên đường, cạnh thác nước, ngắm cảnh thiên nhiên, nhà cửa, nói chuyện bà con dọc đường. Nơi đây quá đỗi nghèo khó, chỉ trồng ngô và ngô là cây lương thực thiết yếu duy nhất, nhà cửa xiêu vẹo, may ra có con bò, gà qué hiếm gặp bầy đàn, dân cư thưa thớt, có muốn làm gì cũng làm không nổi, khá nhất thường có chồng con đi lao động Trung Quốc về tích góp ít vốn cất ngôi nhà xây không cần mặc áo sơn màu. Mỗi người một cách nhìn, tôi không dá đánh giá họ thực sự khổ không hay đó là một gam màu khác trong cuộc sống. Họ nhỏ bé, luôn nhoẻn miệng cười, ít khi phàn nàn, sức lao động bền bỉ, dẻo dai. Dọc con đường  men theo triền núi, hai dãy đối nhau đan xen lớp lớp chạm nhau tận đáy sông Nho Quế xanh rì, vách núi cao dựng đứng nhìn xuống đáy sông thăm thẳm rùng mình, sảy nhẹ chân mạng người rơi rụng theo mây gió. Từ bên đường chính nhìn sang bên kia ngọn núi đối diện, dưới con đường mòn nhỏ đủ lách 2 xe máy, rẽ ngược lên phương thẳng đứng chếch nhẹ đến vài ngôi nhà nhỏ cách đó trông thì ngắn thế mà đi bộ tầm 45 phút, đường đã nhỏ nay còn nhỏ hơn, chênh vênh đáng sợ. Người dân kể bên đó gần trông vậy thôi mà xa xôi lắm đấy, họ thồ vật liệu xây dựng, cát, xi măng, đá tổ ong trên gùi nhỏ, kéo tấm mái nhà từ  chân đèo qua quãng đường đó. Bao nhiêu lượt thồ hàng trên lưng lầm lũi, không xe, không máy móc hỗ trợ, tất cả từ sức người, đôi bàn tay, đôi chân trần biến từ vách núi đá thành mảnh đất bằng phẳng, xây lên ngôi nhà cheo leo giữa rừng núi trơ trọi. Sao lại chọn nơi xa đường thế, gần hơn một chút cho bớt cực được không? Có những câu hỏi tôi không thể trả lời được, anh chị ấy cũng chỉ cười trừ khó giải thích.

Từ 2019, trà xanh sao chảo gang Lũng Phìn đã đạt tới sự chín muồi ổn định giữa các mẻ trà. Chúng tôi còn phát triển thêm một nét đặc sắc của loại trà này là độ gằn mạnh của dòng nước trà dầm trên lưỡi chạy thẳng vào họng sâu nếu pha nước mức vừa vị trung tính tới đậm, không đơn thuần mềm mại, mượt mà như nhiều loại trà xanh ngon chúng ta vẫn gặp. Cảm giác rất đã như đi xe máy trên đường đá gồ ghề, nhấp nhô nhún nhảy suốt quãng đường trải sức. Trà xanh Lũng Phìn thách thức, chơi đố trốn tìm cùng người uống để chúng ta bóc tách lớp lang, khám phá lẫn nhau theo thời gian.

Chúng tôi đặt tên trà Xanh Tiger Monkey theo tên 2 loài động vật trong 12 con giáp là Khỉ – Hổ ( Dần – Thân) tượng trưng cho 2 ngày âm lịch quay vòng diễn ra phiên chợ truyền thống ở Lũng Phìn, nơi người người khắp nơi trong xã tụ họp mua bán, trao đổi hàng hóa, nói với nhau câu chuyện vui, chia sẻ điều mắt thấy tai nghe lạ lẫm, nơi họ bán trà, uống trà với nhau quây quần, giản dị

Chúng tôi đã cố gắng suốt nhiều năm, tạo nên linh hồn cho một dòng trà, từ mảnh đất Lũng Phìn huyền thoại.

LŨNG PHÌN, ĐỒNG VĂN – DẢI ĐẤT TRÀ HUYỀN THOẠI (P1)

Thời gian 5 năm đầu tiên tìm hiểu, khám phá vùng trà Hà Giang, tôi khoanh 3 vùng ưu tiên: huyện Vị Xuyên với các vùng bọc quanh đỉnh Tây Côn Lĩnh; Hoàng Su Phì dàn trải hướng lên ngọn đỉnh Chiêu Lầu Thi; núi đá tai mèo phủ cao nguyên đá Đồng Văn. Tôi tin với địa thế cao vượt ngưỡng phổ biến, khí hậu lạnh kéo dài, địa chất thổ nhưỡng phong phú, khác nhau sẽ tạo nên những loại trà tuyệt vời, tất nhiên còn yếu tố kinh nghiệm và kỹ thuật con người góp sau cùng. Nói là 3 vùng trà lớn, tản rộng ra các vùng lân cận bắt đầu làm quen, tìm xới đâu đơn giản, tốn nhiều thời gian năm tháng, quay vòng khảo sát liên tục. Mỗi lần đi vùng trà đều ẩn chứa thách thức thú vị, mới mẻ cho chúng ta khám phá. Lũng Phìn là nơi tôi tiếp cận sau cùng từ 3 vùng lớn ở Hà Giang bởi xa và heo hút nhất. Tôi muốn chia sẻ câu chuyện tìm tới vùng đất ấy, không chỉ riêng chuyện trà mà còn được gặp gỡ con người hồn nhiên, sống trong đời sống bà con, du ngoạn trên chặng đường xuyên ngày đêm, giao hòa với mảnh đất hùng vĩ, kiêu hãnh này.

Qua vài nguồn thông tin, tôi biết có vài hộ làm trà có thể ghé thăm khá hứa hẹn. Đầu tháng 09/2013 là năm đầu tiên tôi khảo sát khu vực cao nguyên đá này sau hành trình dài 2 tuần trên chiếc xe Ford gầm cao. Từ Hà Giang rẽ theo QL4C qua Quản Bạ, Yên Minh dần chạm tới Đồng Văn. Ngồi trong xe ô tô, tôi cảm giác rõ rệt sự thay đổi độ cao dần qua những làn quanh co uốn lượn bo theo triền núi đá nhọn hoắt chổng thẳng trời xanh. Chỉ thấy đá và đá liên tiếp nối nhau lớp này chạy lớp kia, làn trước đan làn sau xen kẽ, ngoảnh lại sau lưng hay hướng nhìn phía trước vẫn là đá. Chúng tôi dừng xe vài lần mở rộng tầm mắt muôn trùng núi non. Cảm giác thật vĩ đại như bay lên thả bập bềnh, sóng sánh từ chóp đỉnh này qua đính chóp khác, giăng mắc trập trùng tựa như sóng biển đập mãi không ngừng. Đáng ngưỡng mộ những con người nhỏ bé khi sinh tồn và lao động vất vả trong điều kiện khắc nghiệt này qua nhiều thế hệ.

Từ QL4C rẽ theo con đường nhỏ tới Lũng Phìn lúc trời nhá nhem tối, nghĩ rằng sẽ nghỉ lại đêm nay bắt đầu công việc sớm mai, đáng tiếc nơi đây quá hẻo lánh không có một nhà nghỉ nào xung quanh, nghĩ bụng mình tôi thì dễ chứ 3 người xin quá giang nhà dân khá bất tiện. Tôi đề nghị lái xe thẳng tiến Mèo Vạc qua đêm rồi quay lại sớm hôm sau. Trước khi rời đi, tôi đứng ở nga ba đường ngó nghiêng, thấy 2 thanh niên ngơ ngác đi bộ nói cười, tôi chạy lại hỏi thông tin nhà ông cụ làm chè ở đâu, lân la làm quen, xin số điện thoại, hẹn 2 anh sáng hôm sau gặp lại rồi đưa chúng tôi lên đó. Có người bản địa đi cùng, sự lạ lẫm ban đầu không còn là chướng ngại khó khăn nữa.

Như đã hẹn, chúng tôi trở lại sớm hôm sau, 8h sáng đã có mặt tại Lũng Phìn từ Mèo Vạc. Gọi điện xong, 15 phút sau 2 anh xuất hiện mỗi người chiếc xe máy như 2 chàng bạch mã hoàng tử cười tươi roi rói từ từ tiến lại gần. Ba người chúng tôi chia 2 tốp, tôi và anh bạn nhỏ gầy hơn leo lên chiếc xe Win của anh Mông to con hơn, còn anh bạn to con hơn lên chiếc xe còn lại. Ôi thôi, quả thật sau ấy chúng tôi mới cảm nhận sâu sắc vẻ đẹp và giá trị của đá núi Đồng Văn. Cả con đường dài gần 3km như trải dài vô tận, đường mòn chưa rải bê tông, toàn đập đá núi cứng ngắc rải ra, hòn bé nhỏ bằng nắm tay, hòn lớn to ngang đầu con chó tản khắp đường. Tôi ngồi sau cùng, xe lắc lên lắc xuống liên tục theo chiều thẳng đứng, dồn dập liên hồi đuổi bắt hơi thở từng nhịp, lâu lâu lắc đảo xe như muốn kéo ngã oạch cho xong. Chưa kịp hoàn hồn sau cú sắp ngã, anh trai lái xe chống chân thở lấy sức hỏi tôi ngồi được không, lịch sự do tôi người lạ thôi, quen xem chắc khỏi hỏi. Chỉ có thể hổn hển cười xòa với anh trai thôi. Rồi một phát anh rít ga lắc côn đi tiếp, sau quãng dốc ngược là lao xuống, cảm giác vi vu trên núi đèo xưa nay tôi trải qua nhiều nhưng dầm mình bầm dập trong khoảng yên ngồi chật hẹp quả rất thử thách. Chúng tôi ngấm đòn cộng chút buồn cười rú lên liên tục thể hiện sự phấn kích rần rần suốt quãng đường. Đột nhiên thấy anh chàng dừng xe đột ngột trước ngôi nhà nhỏ, gọi điện thoại kêu anh Pó – cháu ông cụ làm trà đi cùng cho vui. 5 phút sau, anh cháu tên Pó chạy ra vác xe tham gia cùng chúng tôi luôn, tôi chuyển sang xe anh liền. Lên vùng cao, nhiều phút ngẫu hứng xuất hiện làm kịch bản gia tăng cảm xúc liên hoàn.

Cuối cùng tới nơi, cả 6 người chúng tôi như một đội, ai cũng hớn hở, vui vẻ theo nỗi niềm riêng mỗi người. Từ chỗ để xe, cuốc bộ một đoạn ngắn là vào nhà cụ làm chè nằm san sát trong quần thể khoảng 3-4 ngôi nhà cách nhau vài bước chân, hình như anh em ruột thịt sống hòa thuận kế bên nhau. Vào cửa, rảo bước đón chúng tôi là vợ ông cụ, mời chúng tôi ngồi quanh bếp lửa đang cháy tanh tách từ từ đưa chuyện. Ngôi nhà quá đôi đơn sơ, cũ tối, chật chội là nơi 2 vợ chồng già sinh sống, cô con gái duy nhất gả chồng khá xa. Có 2 gian buồng nhỏ đủ kê chiếc giường bé xíu, góc bếp một chiếc chạn nhỏ đựng bát đĩa nồi xoong, sang bên kia đối diện là gác cất ngô sấy khô. Không TV, không một vật dụng từ thế giới hiện đại trong ngôi nhà này. Xung quanh nhà có khá nhiều gốc trà cổ thụ thuộc về đại gia đình, cùng sinh sống, hái trà sao sấy. Suốt nhiều năm, tiếng lành đồn xa nhiều người biết đến trà ông già mù sao ngon vô cùng, ban đầu cán bộ xã uống thích đem tặng cán bộ huyện, lan dần lên tỉnh. Hồi ấy 10-20 năm trước, giao thông đi lại khó khăn vô cùng, 100km xa nhau lắm rồi tưởng muốn chia tay luôn, vậy mà nhiều người mê trà ngon vị hương đặc biệt khác lạ của cụ phải quyết tâm vượt đèo lội suốt, rừng núi hiểm trở để lấy dăm ba cân trà, đâu hẳn dễ dàng. Tôi tự cảm thấy niềm vui lạ, lòng đầy khấp khởi, như mình sắp bước vào hang báu, sắp có điều gì tốt đẹp xảy ra. Ông cụ đã già, đôi mắt kém dần mù hẳn nhưng đôi bàn tay tinh nhạy cảm nhận rõ ngọn lửa bập bùng lớn nhỏ, tai nghe tiếng chè va thành bom lao xao khô dần. Từng chi tiết, từng câu chuyện của bà cụ cùng 3 chàng trai Mông cứ tự tuôn ra một cách tự nhiên, góp nhau ngẫu hứng, chân thật từ cái họ thấy kể về đời sống, lao động, lịch sử gia đình, sự khốn khó cũng như niềm vui bao năm qua cho đến công cuộc làm trà rất đáng tự hào một cách khiêm nhường. Tiếc nhất là ông cụ bị ốm, lâu lâu phát ra tiếng ho khụ khụ từ trong buồng nhỏ, nên chúng tôi không được gặp ông trực tiếp, đành chờ dịp khác.

Tôi ngỏ ý muốn mua ít trà cụ bà cho biết chỉ còn 2 túm ông làm từ tuần trước chưa sấy khô đánh mốc, mới kịp sấy khô cánh. Tôi khá nao núng vì bà cụ bận không sao khô ngay được, thời gian không phải thứ dư dật lúc này. Anh Pó cháu cụ liền đề nghị đem về để vợ anh sao tiếp, vợ anh cũng biết sao. Chúng tôi đồng ý vì đâu còn sự lựa chọn nào tốt hơn. Thấm thoát ngoảnh đi ngoảnh lại cuộc nói chuyện kéo dài tới 4 tiếng đồng hồ, tranh thủ ra sau nhà tham quan các cây chè, thấy khu vực làm chè riêng của ông cụ khá độc lập, thoáng đãng, dễ chịu. Có thể thấy sự khác biệt rất rõ cây chè Lũng Phìn so với nơi khác, sinh trưởng trên nền đá tai mèo siêu cứng, lượng đất bám thành ít ỏi, lượng mưa hàng năm rất thấp tới nỗi nước sử dụng hàng ngày trữ bể từ những cơn mưa, không hứng trực tiếp từ mạch nước ngầm thỏa thê thường gặp vùng núi đất đá màu mỡ khác. Cây chè mọc rất chậm, không phát triển mạnh về độ cao và kích thước nhiều. Lượng lá trà ít, lác đác bấu trên thân cây, không xum xuê, um tùm, tràn trề. Cây chè là một thực thể hòa hợp vào điều kiện khắc nghiệt ít nước, ít đất, bám sâu len lỏi ngóc ngách bắt rễ vào đá hút khoáng chất nhỏ giọt tồn tại, đấu tranh sinh tồn, chắt chiu từng cơ hội nhỏ nhất.

Sau đó, tụi tôi xin phép về nhà anh Pó bắt đầu công cuộc “tạo chè”. Nhà anh đắp đất, nhỏ loi choi giữa núi, cạnh đường mòn, trên mảnh đất cào bằng phẳng. Gia đình anh 1 vợ 2 con theo đúng chỉ tiêu của nhà nước bởi anh làm cán bộ cựu chiến binh xã. Chị vợ trước cũng phụ sao trà nên có chút kinh nghiệm, với lại người núi cao, lam lũ hay làm, kĩ năng cảm nhận của nhiều người nắm bắt khá nhanh nếu giải thích thật kĩ lưỡng cho họ. Thôi thì tôi đặt hết niềm tin vào người chị xa lạ này. Cái chảo nấu cám ngô trên bếp đổ cám ra nồi nhỏ, chị hì hụi rửa qua chảo, chà kì thật kĩ thật sạch mùi cám ban nãy, phải mất nửa tiếng mới xong. Trong lúc đó, mấy em nhỏ trong xóm tụ tập líu lo, ríu rít chơi đùa, tôi cũng hóng chuyện chút chít hỏi han, chúng hái hoa cài tóc, mặt mũi lem nhem, quần áo xộc xệch, cười tươi hơn mùa thu tỏa nắng. Quay vào nhà xem chị vợ hong khô chảo, đợi nóng cũng khá lâu. Đây là lần đầu tiên tôi tận mắt thấy quá trình sao trà trên chảo gang, chị đổ trà từ từ, rờ tay bề mặt dãn trà đều ra, chân chị đứng thẳng dáng chữ V lấy trụ, người gập xuống góc 90 độ liện tục không ngồi. Tôi cũng bắt chước chị cào cào một ít học hỏi cách sao trà, chợt lỡ chạm ngón tay vào chảo bỏng rộp giật bắn mình. Ngồi cạnh chị phụ này phụ kia một lúc mà tôi bắt đầu thấm mệt, quay sang thấy vẫn dáng đứng ấy, tay đảo đều nhịp nhàng, mồ hôi lấm tấm trên trán, nụ hười hiền khô. Sao trà nhìn tưởng đơn giản chuỗi hành động lặp lại không ngừng thế mà chẳng như ta nghĩ. Phải rất gần chảo sát trà, không quá mạnh vụn lá, không quá nhẹ thiếu lực tác động lá trà kém xoăn trở thô, không chạm tay vào chảo cháy da, không quá nhanh trà chín xổi kém sâu, không quá chậm trà khét mình, phải tập trung trong chảo trà, phải tập trung lửa nhỏ vừa, nhỏ quá tắt ngúm trà lì luôn, lửa to bùng vài giây cháy trà trong tíc tắc. Đó là bài học ấn tượng của việc sao trà chảo gang ngày đầu tôi nhận được.

Chị tiếp tục công việc của mình, tôi cùng bạn mình trao đổi công việc, chụp ảnh cũng như hỏi thêm một số thông tin. Trời đã quá trưa lúc lâu, mải mốt mới để ý thấy bụng đói, tôi đề nghị xuống chợ mua thức ăn về đãi cả nhà. Giữa chợ đi một vòng không có gì cả, họ đi nghỉ trưa hết rồi, hẹn tối nhé, có đồ cất đi rồi hỏi bán không chịu luôn, nghĩ thấy hậm hực thật. Lòng vòng qua lại may quá chúng tôi mua được ít đậu phụ và thịt lợn, hẻo hơn kỳ vọng bữa trưa thịnh soạn no say, nhưng có còn hơn không. Tôi và anh Mông nhanh chóng ra về kẻo mọi người đợi lâu. Lần này, xe vẫn xóc lắm, được cái mình tôi, cái yên xe dài hơn hẳn, đỡ nỗi khổ bấu víu. Tới nhà, anh Pó nhanh tay sửa soạn rán đậu, rang thịt, hái thêm ít cải mèo luộc chấm mắm. Cơm xong xuôi, chúng tôi nán đợi cho xong mẻ trà chị sao rồi mới ăn. Mẻ sao khô đánh mốc kéo dài hơn 1,5 tiếng cuối cùng cũng hoàn thành, chúng tôi háo hức ngồi vào bàn ăn nâng ly rượu mừng thành công rực rỡ ngày hôm ấy. Tiếng đũa, tiếng thìa leng keng, ly nâng ly chạm cạch cạch hòa cùng tiếng cười nói vang nhà. Bữa ăn luôn là niềm vui lớn, phần thưởng sau những giây phút giao lưu, tìm tòi mỗi ngày mới mẻ.

Cơm nước xong xuôi, tôi háo hức muốn pha thử chất lượng mẻ trà ra sao, nhưng không đủ thời gian, ấm chén nước non không tiện sẵn. Sau đó còn kế hoạch đi xem cây chè to ở dãy núi bên kia cách chừng 7km nữa. Thế là 6 người trên 3 chiếc xe máy xuống trung tâm quành qua con đường khác, đi dọc đường chính một lúc, đến nơi đỗ xe bên đường, đi bộ chừng 300m con đường mòn nhỏ  thì đến điểm võng đáy thoai thoải giữa 2 ngọn núi cao tương đối. Tôi thấy một cái cây chè gọi là to to, cao tầm hơn 5m, tán vòm tròn, chỏng chơ giữa trời, xa xa chỗ kia có 2 cây chè nho nhỏ cạnh nhau. Tôi trố mắt ngạc nhiên xác nhận lại có đúng là cái cây to anh đề cập không. Anh ấy gật đầu chắc nịch. Hớ hớ ! Thật là ngoạn mục, bất ngờ khác xa những gì tôi tưởng tượng. Đúng là cây chè to to thật vì sinh trưởng rất chậm và nó lớn hơn những cây ở nhà cụ già mù. Tôi nghĩ ít ra cũng vài chục cây chứ nãy giờ lơ thơ 3 cây giống như tôi đang đứng trời chồng, ngẩn người tò te. Thoáng chút bỡ ngỡ qua đi, hỏi thêm biết rằng trước đây mấy chục năm, cây chè phân bổ rải rác ở đây khá nhiều lên mạn triền núi cao bên kia, nhưng xứ đá cằn gai góc này nhìn cây chè đâu thể sống mãi được, họ đốn hết đi tra ngô trồng cải xen kẽ. Điều này có thể hiểu được, dân số ít, đất thịt quá ít không đủ trồng cây lương thực, cây rau, người dân ăn chính là mèn mén (bột ngô xay), đậu xị và rau cải mèo. Cây chè là một loại cây, bình đẳng như những cây khác trong núi. Trước khi họ đợi tới ngày kiếm tiền từ cây này có lẽ chết đói hết rồi. Ba cây kia vì sao giữ lại làm kỉ niệm hay làm gì thì 3 anh Mông cũng không biết nguyên do. Đi một đoạn nữa tôi thấy nhiều bụi trà mọc hoang, khá thấp tới bụng ngực người lớn mới canh tác hàng loạt tầm 20 năm tuổi. Cây lớn tự nhiên, không sử dụng phân bón hay thuốc trừ sâu. Kế hoạch này bắt đầu từ một cán bộ tôi không nhớ rõ tên, làm ở phòng nông nghiệp huyện, anh rất yêu vị trà Lũng Phìn, xót xa trước sự mất mát đốn chặt hàng trăm nghìn cây trước đây, nên anh đề nghị trồng lại hoàn toàn bằng hạt giống chè nơi đây, tái tạo lại cho tương lai một thế hệ chè khỏe mạnh, hương vị đặc biệt. Chúng ta phải cảm ơn anh rất nhiều vì những gì anh đã làm, đóng góp tăng sản lượng trà Lũng Phìn, quảng bá chất lượng khác biệt.

Tối hôm ấy, trong khách sạn ở Mèo Vạc, chúng tôi thử mẻ trà ban chiều. Tôi thực sự ngỡ ngàng một lần nữa, như khi ngỡ ngàng trước rừng núi đá Đồng Văn, loại trà này tuyệt vời quá, rất khác những loại trà xanh tôi thử trước đây. Nó nhả nhẹ hương khói củi, lửa ấm, vị trà nhẹ trước đậm sau, độ khoáng khá nhẹ, một chút tảo biển thì phải, hậu vị dai dẳng. Thực sự cảm giác đã khá lâu, nhưng để lại một dấu ấn mạnh mẽ rằng đó là những gì tôi đang tìm kiếm. Sự sung sướng, hài lòng kéo dài mãi, tôi ngồi mường tượng lại tất cả tình tiết xảy ra trong ngày, từ từ chìm vào giấc ngủ.