Bà Nguyễn Thị Ngọ có tính cách hào sảng, cởi mở, luôn sống chan hòa cùng gia đình, bà con hàng xóm, cùng những người bạn già trong hội nhóm bà tham gia. Làm gì bà cũng nhanh nhẹn, xông pha, quyết đoán rõ ràng chẳng hề tính toán quá nhiều cho bản thân mình. Dường như ngày mai sẽ tốt đẹp hơn, bừng sáng hơn đang chờ đón phía trước, cứ vui vẻ, làm những gì cần làm. Tôi gặp và cảm mến bà ngày từ lần đầu tiên gặp gỡ nhiều năm trước. Bao năm qua, nghĩ về bà, như tình thân gắn bó cùng sự nể phục trước nhân cách một con người.
Bà sinh năm 1942. Hồi nhỏ, bà sống ở phố Hàng Cháo, phụ giúp gia đình anh trai kinh doanh nơi phố xá nhộn nhịp, tới khi trưởng thành bà đi làm ở nhà máy dệt Minh Khai.
Năm 1968, cô Ngọ, lúc ấy là 26 tuổi, lấy chồng sau nhiều năm yêu thương, chờ đợi người yêu đi chiến trường miền Nam trở về. Cô chuyển về sống ở làng Quảng Bá thuộc phường Quảng An, Tây Hồ ngày nay. Hồ Tây mênh mông, bát ngát, trải dài vô cùng tận, nhíu mắt nhìn không biết đâu là bờ. Chạy dọc những con đường quanh co nối về làng qua chùa Hoàng Ân là hàng tre xanh cao vút, vững chãi nghiêng nghiêng theo từng cơn gió từ hồ ùa vào. Bên đường người ta trồng rau muống nhiều lắm, đường xá vắng lặng không một bóng người, lâu lâu thấp thoáng một ngôi nhà. Ngày ngày, cô đạp xe từ nhà xuống tận Minh Khai hơn 10km, xa xôi là vậy nhưng công việc có nề hà gì, chả lẽ ở nhà sao được, ai cũng ít nhiều trải qua thời khó khăn như vậy. Nhiều hôm đi qua Yên Phụ máy bay thả bom đạn nổ chết người, thế mà vẫn phải đi, lao như con thiêu thân, còi hú là bỏ xe chui xuống hầm, yên ổn lại bò lên, cứ tí lại chui xuống hầm núp, một ngày không biết bao lần bò lên chui xuống! Có ngày tăng ca sản xuất, 11 giờ đêm khuya mới mon men tới bờ đê, trời tối đen kịt, ếch ương kêu ễnh ộp, gió rì rào cây tre kêu kẽo kẹt, sợ lắm! Đường sóc, nhấp nhô, cô cố đạp cho nhanh về nhà. Mãi cũng thành quen.
Hồ Tây quanh đây là những làng quê yên bình, vắng lặng. Mỗi làng có truyền thống theo nghề khác nhau từ nhiều đời: làng Yên Phụ nuôi cá cảnh, trồng cây cảnh; làng Nghi Tàm trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa; làng Nhật Tân trồng đào, hoa cây; làng Quảng Bá nuôi cá, trồng sen – làm sen, trồng bán rau muống bạt ngàn. Làng Quảng Bá nhà cô đắp kè tạo bờ từ hồ nuôi cá, trồng thêm sen phủ mặt hồ khỏi bị trộm cá. Sen thơm mát, vô cùng, tạo nên cảnh đẹp lãng đãng, nên thơ không khí tươi mát, mùa về hoa nở có thể đem bán trên phố. Tình cờ cũng là tạo hóa ban cho thổ nhưỡng tuyệt vời nơi đây tạo nên tuyệt tác Sen Bách Diệp trăm cánh xen kẽ ôm trọn nhiều hạt gạo trắng tỏa ra nhiều hương nhất, khiến ai cũng lay động trước vẻ đẹp thuần khiết, thanh tao này. Cuộc sống làng quê quanh năm gắn liền với nông nghiệp, ai cũng làm lụng vất vả chỉ mong đủ ăn đủ sống, nhà ai cũng đun nước lá vối quanh năm suốt tháng. Duy chỉ 2-3 nhà khá giả nhất là bà Sùng, bà Phùng, bà Vỹ có điều kiện quý lắm mới mua được 1-2 kg trà đem ướp sen để gia đình thưởng thức trong dịp quan trọng, biếu khách quý.

Sau này, năm 1983 cô Ngọ xin nghỉ hưu non, về nhà bươn chải đủ thứ chăm lo gia đình. Cái gì làm được cô làm hết không nề hà từ gánh hàng, bán hàng thuê, đánh bắt bán cá, trồng rau cỏ. Cuối mùa sen lúc rảnh rỗi cô tranh thủ ra ao cắt lá cành sen phơi khô làm củi đốt. Trong làng đâu đâu cũng thấy cảnh phơi lá sen khô như hội, mùi lá khô rất khác lúc tươi tỏa ra trong làng, mọi người đi ngang qua nhau tíu tít kể vài câu chuyện.

Đầu những năm 1990, HTX Sen Quảng Bá tạm ngưng hoạt động khi đất nước bước vào thời kì đổi mới. Trong làng có 24 người đại diện từ 12 gia đình chung nhau xin nhận canh tác 24 mẫu ao, chăm sóc ao nuôi cá, trồng sen. Cô Ngọ và chồng cũng tham gia chuyên làm ở ao Đầm Trị, ao Chùa. Từ tháng 4 tới tháng 7 âm lịch, đến mùa sen nở, mỗi gia đình một người dạy sớm ra đầm hái sen bông, người đi giao sen trên phố. Gần 7 giờ sáng, cô buộc hàng trăm bông sen sau xe, đầu đội nón, chân đạp xe dọc hồ Tây về phố cùng các chị các cô trong làng. Có lúc cô giao hoa bông, giao hoa vòng ở chợ hoa Hàng Lược, rồi men theo từng con phố nhỏ quen thuộc một thời rất đỗi gắn bó thuở nào. Người Hà Nội xưa giờ rất đỗi yêu hoa, mùa nào trưng hoa ấy, nhất là ngày rằm mùng một, nhà nhà sắm một bó sen, cắm ban thờ hay trưng giữa gian nhà tỏa hương len lỏi, thoảng nhẹ thắp sáng cả không gian sống. Hồi đầu bán sen, cô cùng mọi người hay ngồi ở chợ Đồng Xuân, xôm tụ cùng các gánh hoa nhài, nụ tầm xuân từ làng Đại Yên, Ngọc Hà. Khách mua quen dần đặt các cô có nét tỉ mỉ, kĩ càng làm sen luôn tại chợ, tay tách gạo sen nhẹ nhanh. Vài năm sau cô Ngọ thân quen chở giao sen làm trực tiếp nhà khách luôn. Mỗi xe chở tầm 200-300 bông sen, dừng xe xong là gánh bó sen trên vai đi vào con ngõ sâu hun hút, có khi lên tầng leo lối cầu thang bề ngang hẹp tầm 70-80cm. Đi qua gian ngoài hoặc dưới tầng là cửa hàng kinh doanh, nhà nào nhà nấy khang trang, gọn ghẽ, bàn ghế vuông vức đối xứng nhau qua chiếc bàn dài, bàn ngắn, đôn trưng bày cổ vật, bình hoa các góc nhà. Nhà rộng hơn họ treo tranh chân dung gia đình, bức tranh khảm trai, tranh vẽ trang trí trên tường. Nhìn vào thấy bề thế lịch sử của những gia đình truyền thống có gia phong nề nếp. Cô Ngọ thấy mình may mắn, gặp nhiều cụ thương cô, gọi cô về làm sen tại nhà, cụ nào cũng tình cảm, ân cần. Cô nhớ:
Cụ Giám 12 Thuốc Bắc
Cụ Ninh Hương 22 Hàng Điếu
Bà Đính 50 Hàng Gai
Cụ Bảy nhà Ngõ Gạch, cụ đẹp nhìn như người Tây, mũi cụ cao dáng dọc dừa thanh thoát. Nhà cụ anh em, con cháu ai cũng học cao, hiểu rộng, ăn nói nho nhã, mực thước. Họ đi học rồi sinh sống bên nước ngoài nhiều. Gia đình có truyền thống ướp sen lâu năm, mỗi dịp rằm mùng một, ngày lễ Tết sum vầy hay những đêm trăng thanh gió mát, nhà cửa thư thái, cụ ngồi nhâm nhi ấm trà ngon, túc tắc một mình có khi cùng con cháu chung vui. Cụ và các con trong nhà tự tay ướp từng cân trà, gửi tặng những người thân nơi phương xa trọn tấm chân tình.
Bà nhà Nguyên Ninh, nhà cửa rộng lớn, kinh doanh người ra người vào tấp nập. Bà Nguyên Ninh nổi tiếng đảm đang, tháo vát vô cùng, làm gì cũng đâu ra đấy, từ việc kinh doanh hàng ngày tới quán xuyến gia đình, quy tắc chỉn chu. Nhà bà bán bánh cốm, trà nhài, trà sen, quà bánh ngon nhất con đường từ dốc Hàng Than đi xuống, thế nên bà đặt sen nhiều, có hôm cần 2-3 người làm sen một buổi sáng. Đi làm sen mải mốt chả kịp xong bữa sáng, cô Ngọ bụng đói rì rào, có hôm bà Nguyên Ninh ân cần hỏi cô có ăn bánh cốm không. Mắt cô sáng rực, gật đầu nhẹ nói: “có bà ạ”. Cô trộm nghĩ: ” được ăn cháy cốm cũng là ngon lắm ấy chứ”.

Có ông Xì Mẩu – người Tàu ở Ngõ Gạch, chỉ đặt giao hoa thôi. Xì Mẩu làm ăn lanh lẹ, bán nhiều trà đủ các loại,. Mà ông này lạ lắm! Ông chỉ thuê thanh niên, con trai làm sen, nhất định không thuê phụ nữ nào hết, tối ngày lo làm ăn, không chịu lấy vợ.
Cụ Chính Ký hay còn gọi cụ Hiển, nhà ở 23 Hàng Bồ. Cụ đẹp như bà tiên giáng trần từ trong tranh bước ra, dáng người mảnh khảnh, khuôn mặt nhân hậu nổi bật lên là đôi mắt sâu và chiếc mũi cao thanh tú. Phong thái bước đi nhẹ nhàng rất uyển chuyển, điềm tĩnh lắng nghe và trả lời mỗi khi nói chuyện. Cụ Chính Ký là người đặt sen nhiều nhất chỗ cô Ngọ và cũng là người gắn bó lâu nhất. Cụ kể chuyện: “tôi cũng không rõ chính xác ướp chè sen có từ lúc nào, từ thời Pháp thuộc đã có rồi. Theo nếp nhà tôi cắm hoa, trưng hoa, học ướp thứ chè cầu kỳ này đầu những năm 1935. Trước 1954, mua bán chè dễ lắm, cứ ra phố là mua được, còn thời bao cấp khó khăn hơn nhiều, đem trong người 1kg chè là bị bắt đấy”. Cụ kể làm gì có chè Thái, họ đem bán chè tươi là chủ yếu, hồi ấy cụ toàn mua chè Hà Giang để trong bao bố, cậng lá dài lồm bồm bám bụi hoặc đóng thành bánh to như cái mâm (mâm uống trà ăn bánh bằng đồng, đường kính 30-40cm). Về chưa ướp được ngay, lá chè già lắm, phải đồ lên cho bở ra bớt ngái, lấy tay tách từng nhánh riêng rẽ, phơi khô, để tới mùa sau hả hết hơi cũ mới đem đi ướp chè. Khoảng 10kg nhặt ra lấy lá non chừng 3-4kg đạt độ ướp chè. “Chè Hà Giang pha ra có màu nước vàng đỏ, không xanh như chè Thái đâu, vị không chát xít, được nước lắm, càng uống càng đượm, như cuộc đời mình ấy, về sau đọng lại sự ngọt nhẹ hài hòa” cụ nói. Cụ hướng dẫn từng ly từng tý từng công đoạn, từ từ không hối thúc chút nào. Qua từng năm, cô thấm nhuần vào hơi thở của mình cách thức, công đoạn, ra trà, vào trà, tách gạo, sấy khô, cứ thế quá trình lặp đi lặp lại như những vòng quay của sự kiên trì, tỉ mỉ bền bỉ theo tuần, tháng và năm. Cô có ơn với cụ Chính Ký nhiều lắm, nhờ có cụ mà cô có được cái nghề, càng làm cô lại càng thích và có tình cảm với nó. Cô coi cụ như người thầy, người mẹ thứ hai của mình.

Người Hà Nội xưa hào hoa, thanh lịch, khéo léo, tinh tế. Sự giao thoa của những bậc tri thức thâm trầm – tâm hồn lãng mạn yêu cái đẹp, đậm nét văn hóa cùng bàn tay thụ cảm tinh tế ở đất Thăng Long ngàn năm văn hiến tạo nên một tác phẩm bất hủ của làng trà Việt Nam chính là Trà Sen Tây Hồ và lan tỏa, chuyển tiếp nghề ướp trà sen từ cửa ngõ phố hàng giao thương sầm uất xưa kia.
12 hộ gia đình trồng sen, làm sen chừng hơn 15 năm rồi trả lại cho HTX cũ. Từ đó mỗi người tự do phát triển nghề riêng, có người nghỉ làm, có người tiếp túc giữ nghề, truyền dạy cho con cháu trong gia đình. Bà Ngọ là một trong 12 người đầu tiên ở quận Tây Hồ được nhà nước phong tặng ” Nghệ nhân ướp Chè sen” mãi tận 13 năm sau lần gặp đầu tiên tôi mới biết sự kiện này, vì bà không treo lên tường. Bà chỉ để khung ảnh, cất trong cái hộp cứng kèm theo những bức ảnh ngày xưa của bà.

Bà nói với tôi:
– Bác ngoài 80 tuổi rồi, ngày nào ướp chè được biết ngày nấy. Chừng nào còn sống, bác sẽ cố gắng làm.
Hôm nào trời mát, bà vẫn đạp xe ra hồ Tây vài vòng đi chơi, í ới chào mấy bà mấy ông trong xóm. Hôm nào đông vui bà sẽ đem theo ít trà đến pha uống chung vui cùng mấy ông bà bạn. Có một lần ngồi bên bậc thềm trông ra hồ bà trầm ngâm:
– Hồ Tây này nuôi sống không biết bao nhiêu con người. Không có nó, mình không được như ngày hôm nay đâu.
***
12 người đại diện 12 hộ tham gia canh tác, thu hoạch, cung cấp sen sau đổi mới cải cách:
Ông Thảo (chủ nhiệm), ông Xiêm, bà Ngọ, bà Vĩ, bà Diễn, bà Sùng, ông Tí, bà Loan, bà Kình, bà Phùng, chú Bắc, bà Oanh, bà Toàn