Bâng Khuâng Sen Hồng Cuối Hạ

Cảm xúc về sen qua tháng ngày trên nhiều mảnh đất. Một vài chia sẻ trải nghiệm thú vị của tôi với trà sen bông tươi.

Có người thoáng hỏi:

– Sao tôi uống sen này không có cảm giác như đứng trước một hồ sen như một nhà báo nào đó từng nói?

Về tôi thoáng nghĩ:

– Đã bao giờ anh biết mình đang đứng trước một hồ sen chưa?

Sen ở đâu cũng ngát cũng đẹp, tôi thấy vậy. Ngắm mọi người múa hát bên hồ sen Thúy Hồ, Côn Minh khoan khoái thú vị. Ôm bó hoa sen hồ Tây sao mà dịu dàng gắn bó đến thế! Đứng dưới mưa ngắm bông sen trong chùa Từ Hiếu cảm nhận trọn vẹn sự trầm mặc đâu đây, vẫn thoang thoảng man mác. Chạm vào cánh sen thơm hồng tháp Mười như cảm thấy sự tươi mới, thanh tân.

Lotus1aHoa sen không phải ngẫu nhiên trở thành loài hoa biểu tượng thấm đẫm triết lý Phật giáo. Từ sự vươn mình kiên nhẫn trong hoàn cảnh bùn lày khó khăn, nở bung những cánh hoa sắc hồng tươi thắm, thanh khiết lan tỏa vẻ đẹp tinh khôi, thanh tịnh khiến mọi loài trở nên hiền hòa tĩnh lặng. Lẽ vậy, nhiều người yêu sen, mến sen, ngắm sen mãi hoài không chán, thế nên người xưa tìm cách lưu lại vẻ đẹp thuần khiết của sen sâu vào trong cánh trà hòa quyện vô cùng tinh tế. Gửi hương hoa tự nhiên vào trà đã khó, mất từ 4-5 ngày qua 2 lần sấy ướp mới xong, nhưng ướp sen thì kỳ công gấp bội phần, tỉ mỉ nhẫn nại suốt 6-8 lần tuần hoàn nào xếp bông, tách gạo, gói lá giữ hương, rải ướp, tách gạo – trà, sấy khô trải dài gần một tháng mới hoàn thành trọn vẹn mẻ trà. Nên uống trà sen, bạn có thể có cảm tình hay không không quan trọng. Để cảm được, bạn cần thấy được tự tính của sen, vẻ đẹp của sen, sự bất biến của sen.

Những sáng ngày hè năm nào, tôi đi từ Trương Định lên hồ Tây, ngồi nhặt gạo sen miệt mài bên hồ, nhiệt tình quá được chú chủ hồ tặng luôn 2 bông sen ngậm trà Thái Nguyên. Về nhà vui quá, tối uống vội luôn.

Sau này, lác đác một vài buổi, tinh khôi tôi về Hà Nội, cùng người bạn già đã ướp trà sen gần trọn một đời người, mỗi người đạp chiếc xe quanh hồ Tây quen thuộc. Và chúng tôi ngồi bên hồ hồi lâu, mang theo ấm sen ủ ấm trong giỏ mây kiểu xưa ra từ từ uống từng chén trà, ngắm đầm sen xa gần. Có đêm đông, ngồi trên tấm phản gỗ nhỏ, nhớ quá làm một ấm trà sen nhỏ, trọn một buổi tối mà sao hương vẫn còn lẩn khuất, vị ngọt thanh dần chẳng mất đi đâu được. Trăng lấp ló qua cánh cửa sổ mở khẽ có lẽ đang mỉm cười với chúng tôi.

Lotus2Mùng 1 Tết Sài Gòn sao im lặng lạ vậy! Đâu còn còi xe hối nhau giữa phố phường, chỉ còn lại lá xào xạc rơi rơi trên thềm. Tự nhiên tôi muốn uống trà Cúc, hương vị cúc không chứa nhiều lớp lang phức tạp mà rất thanh nhẹ khiến tôi thư thái, dịu dàng. Rồi ngay sau trà Cúc, tôi biết mình muốn uống trà sen. Và sau đó là lớp hương thanh – sâu chạm tận sau đỉnh đầu man mát lan tỏa. Hài hòa và ngọt ngào rất đỗi tĩnh lặng. Nó khiến tôi thấy tự do, yên tĩnh, không còn ràng buộc bởi suy nghĩ thoáng qua bất chợt nào đó. Suốt Tết năm nay, tôi chỉ quanh đi quẩn lại 2 món trà này mà thôi.

Xưa nay, các cụ thường uống sen ướp khô, lúc nào cũng tiện vả lại hương vị thơm sâu sắc giữ qua nhiều tuần trà.  Song nếu vào mùa sen nở, có thể trải nghiệm sự khác biệt thú vị là trà sen bông tươi ( nhiều người gọi là sen sổi) lấy một ít trà bỏ vào trong bông hoa chúm chím, quấn lại bằng lá sen để trà ngấm dần hương sen tự nhiên, thật là lý tưởng và thi vị nếu như được uống ấm trà này ngay bên hồ sáng sớm hay lúc trăng thanh gió mát. Tôi thì không ưng cách gọi “sen sổi” lắm vì nó chỉ thể hiện tính sổi khi sản lượng hóa hàng loạt bằng cách ướp trà vào bông để trữ đông nhiều tháng ngày. Da thịt có thể đông cứng, chứ hương thơm đâu thể cầm nắm mà cố định lại. Một khi rã đông, cánh hoa héo úa, nhợt nhạt, rụng rời theo từng sợi trà nhả ra, tinh thể đá tan chảy trôi luôn chút hương ít ỏi còn sót lại. Ôi thôi, thanh tân nay còn đâu ! Chỉ còn một cô gái mặc yếm đỏ, da trắng ngần, tóc đen dài chấm thắt lưng đổ về phía trước … chết trôi sông!

Lotus3Ở Sài Gòn, muốn tận hưởng cảm giác từ lúc bỏ trà vào hoa tới khi nhấp chén trà cuối trong khung trời Tây Hồ quả không đơn giản. Chẳng thể lãng mạn như trong thi văn Nguyễn Tuân từng viết thì đành lách cách uống sen bông tươi ngắm hồ trong tâm tưởng vậy. Thế là tháng 7, tôi chọn nền trà xanh cổ thụ vụ xuân Phìn Hồ, Hà Giang, thử hai mẻ trà một đầu tháng và một cuối tháng khi sen vẫn đương thời chín muồi dày hương. Mẻ đầu ướp đệm trà qua lớp cánh sen non bên trong làm tăng độ ẩm đồng thời trà cũng ngấm hương sâu hơn, sau đó mới dùng trà này vào bông sen tươi cuộn lá sen. Mẻ sau ướp trực tiếp trà khô cộng thêm chút gạo khô vào trong bông sen tươi rồi cuộn lại. Cứ thế 2 mẻ trà bay thẳng vào Sài Gòn cất ngăn mát tà tà uống dần trong vòng 2 tuần. Tùy vào độ ẩm, dày hương, mới ướp hay trữ mát lâu hơn mà hương vị biến đổi từ ngọt thanh của quả na ( mãng cầu xiêm) tới thơm mát chua thanh của vỏ chanh vàng. Cá nhân tôi thích mẻ đầu hơn, uống sau khi ướp 3-4 ngày trà hút hương đủ lâu, vì sự phối ngẫu phù hợp ăn ý giữa độ ẩm vừa phải (đủ ko gây mốc, ướt) làm trung hòa giảm độ chát tự nhiên của trà xanh thậm chí vị trở nên ngọt hơn, đồng thời hương sen rất thú vị ở chỗ nó cực khó ăn hương song ngấm là ngấm rất lâu. Dù là ướp tươi, mà uống rất bền, qua 5-6 nước trà mới dịu lại.

Hai mẻ trà là đôi ba chục bông, số vốn này cũng kha khá đấy chứ. Thế là tôi uống, uống ở nhà, ở ban công, uống nơi làm việc, uống ké quán cà phê người ta, uống bên vệ đường, uống một mình, uống cùng các bạn trà đêm trăng mười bốn… Cảm xúc không giống nhau, tuy nhiên đều vui vì phát hiện nhiều sự khác biệt nho nhỏ thú vị. Có thể không phải bông sen trà hoàn hảo nhất nhưng cảm xúc đong đầy nhất là bông đầu tiên tôi vào chùa buổi chiều mát chia sẻ cùng người bạn trà của tôi. Mở lá sen ra là màu hồng phấn nhẹ, chúng tôi cầm lên hít thật sâu, thơm quá, dễ chịu quá tới nỗi không dám tách trà khỏi bông. Luyến tiếc một hồi cũng phải gác lại, tôi nhìn bạn tôi pha, chăm chú, nhìn trà lẫn chút gạo sen lên xuống theo dòng nước, hương sen bắt đầu tỏa ra quẩn quanh mắt tôi, tóc tôi. Sau mươi giây trà rót ra.

Nước đầu hương nhẹ, vị nhẹ, chút chát nhẹ đặc trưng trà xanh.

Nước hai hương dày hơn phảng phất như hương quả na, vị sâu hơn, có sự hài hòa cao độ giữa hương và vị.

Nước ba hương thơm không kém hơn nhưng đi từ từ vào trong chậm rãi hơn, vị trà vẫn đậm đà.

Nước tư hương bắt đầu ngả xuống, vị bắt đầu ngọt dần.

Nước năm hương tiếp tục ngả xuống, vị gây sự ngạc nhiên, nó ngọt hơn trước chứ không hề nhạt đi chút nào. Hậu vị ngọt lạ, rất mượt và dễ chịu.

Nước sáu hương chỉ còn loảng thoảng đâu đó, vị ngọt nhẹ dần.

Sự thư thái lan tỏa. Chúng tôi nhìn nhau cười, cảm thấy hân hoan vì mỗi người trong chúng tôi vừa mới tìm thấy người bạn quen mà lạ, lạ mà quen này.

Và trong khoảnh khắc nào đó, tôi đã thấy hồ sen của riêng mình.

Mùa hè triền miên những ngày mưa

Một số tác động tiêu cực lên cây chè gần đây từ mối quan hệ cộng sinh rừng và cây chè dưới một góc nhìn hẹp qua những con đường tôi đi.

Mấy hôm nay Sài Gòn mưa rả rích cả ngày, buồn thối ruột thối gan tới mức những người chịu khó đi chơi nhất cũng phải ngồi nhà nhiều hơn.

Nhớ lại tuần vừa rồi gọi điện nói chuyện với mẹ, mẹ kêu mưa suốt ngày mấy ngày rồi. Ngạc nhiên, mới cuối tháng 7 còn kêu ồi ồi nắng phát sốt lên cơ mà. Mẹ tôi ở Lào Cai.

Hôm kia, thứ 4, cuộc điện thoại thăm thân từ Lũng Phìn, Hà Giang chia sẻ: “ Ngọc ơi buồn lắm, năm nay mất mùa chè vụ giữa rồi. Mưa nhiều lắm, ngày nào cũng mưa, chả kịp hái chè. Thôi phải đợi tới tháng 9 vậy”. Thì thôi cũng phải đợi chứ biết sao bây giờ! Mắt chớp chớp, nghĩ ngợi: “ Uống gì giờ nhỉ?”

Đầu tuần, gọi điện lên Mộc Châu, tình thương mến thương hỏi:” Vẻ đẹp Á Đông (Đông Phương mỹ nhân) sao rồi? Em ấy có sức khỏe không vậy? Chú trả lời:” Không, em yếu xìu, mưa suốt ngày, rầy xanh chắc buồn chả muốn cắn lá, làm sao nổi, không lên hương được”.  Sắp hết hè rồi mà chửa mót nổi cân nào. Ôi chao!

Chiều qua gọi lên Suối Giàng, Yên Bái buôn dưa tí, lại tâm sự: “ Chán lắm, mưa tối ngày. Nắng tí hái tí, chả bõ cân chè. Chả buồn làm”. Ôi, mưa !

Tối qua xem TV cập nhật tiếp tin lũ lớn ở Mù Cang Chải, Yên Bái, sạt lở, thiệt hại, mất tích, chết chóc…

Tháng 7 Hoàng Su Phì, Hà Giang cũng mưa nhiều, sụt lở nghiêm trọng.

Mưa nhiều, lá chè ngậm nước nhiều, sinh trưởng nhanh nên vị trà khá nhạt, làm trà ngon hạn chế ngày mưa. Vả lại đường trơn trượt, ướt át ai cũng ngại ra ngoài hơn, lấy đâu người hái chè.

Blog-32Mùa hè thì lúc nào chả mưa nhiều hơn, cái đó ai chả rõ, thế nhưng mưa nhiều tới mức sụt lở nghiêm trọng, mưa dồn dập một khu vực như vậy quả là bất thường. Mà cái thời tiết bất thường này xảy ra gần đây có tính đều đặn thường xuyên hơn do sự biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng. Cây chè vốn là loại cây sinh trưởng trong môi trường sinh thái đa loài (biodiversity) nên nó chịu ảnh hưởng trực tiếp mạnh mẽ từ hệ sinh vật xung quanh. Nếu hệ sinh thái các sinh vật nói chung, rừng cây nói riêng phát triển không đồng đều, nhẹ thì chất lượng sụt giảm, nặng hơn nữa thì mất mùa, có thể cây chè sẽ chết vì không còn khả năng chống đỡ trước sự tàn phá khốc liệt này. Tôi trước hết là người uống trà, rong ruổi trên những cung đường trà khắp nơi, chạm vào lá chè, sao trà để uống. Đã thấy quá trình biến đổi từ lá non trên cành chế biến thành cánh trà khô, đã thấy những mầm trà non vươn lên từ đất mẹ cho tới những cây già cỗi, chết dần chết mòn. Tôi cảm thấy xót xa mỗi khi biết tin năm nay trà bị sao.

Dọc con đường dài từ Bắc Quang, Vị Xuyên đi lên Hoàng Su Phì qua những nẻo đường uốn lượn quanh co nhìn xuống là thung lũng sâu hun hút. Ruộng bậc thang trải dài Tú Lệ, Mù Cang Chải lãng mạn nên thơ. Những con đường heo hút hòa trong mây trắng dẫn tới cổng trời ở Mường Khương, Bắc Hà tỉnh Lào Cai. Rồi Điện Biên, Lai Châu ở miền núi phía Bắc những ai đã từng đi qua đều phải trầm trồ trước vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên. Nhiều khi thẫn thờ, tôi tự hỏi sao tạo hóa kì diệu thế, sao lại đẹp thế này? Song bên cạnh đó tôi vẫn thấy xa xa là sườn núi trọc, trơ mình đất đá khô cằn từ vùng này cho tới vùng khác. Để canh tác trồng hoa màu, lương thực thì ít mà chặt phá không tái thiết thì nhiều. Thi thoảng thấy rừng xanh thăm thẳm khấp khởi như khoe với anh Dao anh Mông:

“ Ôi, nhiều cây nhỉ, thích nhỉ, chắc nhiều cây gỗ quý lắm!”.

Anh hồn nhiên nói:

” Gỗ quý chặt hết rồi, toàn gỗ loại 4, loại 5 thôi. Giờ mà kiếm gỗ làm nhà là chúng mình phải đi sâu vào trong rừng mới kiếm được”. Vâng, người vùng cao sinh tồn cùng rừng núi, họ chủ yếu làm nhà từ cột trụ gỗ, trát đất hay ke đá…

Hay ở Bắc Hà, tôi tò mò hỏi em, một chàng trai trẻ người Mông tốt nghiệp ĐH Nông Nghiệp Hà Nội:

” Tỉnh mình có dự án nào phủ lại rừng không em?”

“ Có chị ạ, nhưng trồng xong, bà con thả trâu bò, lợn gà chạy lung tung nó giẵm nát hết. Cũng không ai để ý nên trồng không hiệu quả lắm”: em nói.

Tôi nhớ năm 2009 lên Suối Giàng chơi. Một buổi tối, đang ngồi uống trà, một con xe Win phi từ ngoài đường xuyên thẳng vào trong sân sau, 2 vợ chồng phi như bay về phía chiếc xe, tò mò quá, như phim, tôi liền chạy theo, trong bóng tối nhá nhem, tôi thì thầm :

“Gì thế chị?”

“Gỗ về em ạ”: chị nói.

Vâng một khúc gỗ dài tầm 90cm, đường kính 35-40cm, nghe nói là 1 khúc gỗ quý lâu lâu mới có mà tôi chả để ý là cái thứ gỗ gì.

Năm 2017 tôi hỏi chị:

“Dạo này còn khúc gỗ quý như năm nào không chị?”

Chị trả lời: “ Làm gì có mấy em, giờ hết rồi”.

Vâng giờ hết rồi. Rừng cứ trơ trọi dần, mà nó trọi sẵn lâu rồi, sao chống đỡ nổi cơn lũ ống lũ quét bạo hành khắp nơi.

Đứng trước cảnh đình chùa cổ tĩnh lặng, mái cửa gỗ đục đẽo tỉ mỉ, hay những ngôi nhà gỗ đẹp, những tác phẩm nghệ thuật gỗ nào bàn ghế, phản, tượng đẹp nao lòng tôi thấy rất thích, thấy rung động bởi chúng rất mộc mạc thân thuộc với mình. Có điều bảo sở hữu những thứ như vậy thì hoàn toàn dửng dưng, nghe đàm luận đọ gỗ quý hiếm lại càng thấy xa lạ thậm chí phản cảm. Thôi thì việc ai người ấy cứ làm.

Rừng cứ trơ trọi dần –  gỗ to, gỗ quý, gỗ hiếm – lòng người vẫn cứ ham cứ mê – mẹ thiên nhiên quẫy đạp.

Trà ngon, uống sướng lắm! Lâu lâu trà kém ngon, ta cười, ta hiểu.

Bàn chút về cây chè Việt Nam

Cây chè xuất hiện trước nhất ở đâu Việt Nam? Một số khái quát của dòng chảy phát triển của sản xuất trà ở nước ta.

Blog-2-Suoi-Giang
Cây chè mọc tự nhiên ở Suối Giàng

Khi nhắc tới nguồn gốc của cây chè, nhiều người liên tưởng ngay tới Trung Quốc bởi trà là thức uống nổi tiếng với bề dầy lịch sử và sự đa dạng phong phú chủng loại bắt nguồn từ đất nước rộng lớn này. Có vài thuyết đưa ra chứng minh cây chè nó phải được xuất hiện từ một quốc gia nào đó tùy thuộc vào thời điểm giới hạn sự so sánh cây chè giữa các vùng, đất nước. Tuy nhiên thực tế cây chè là giống cây cận nhiệt đới, bản thân nó tự mọc lên sinh trưởng  ở vùng đất có điều kiện tự nhiên phù hợp với nó chứ không quyết định bị chi phối do làn ranh giới quốc gia phân biệt của con người tận sau này. Đó là vùng chân núi dãy Himalaya trải dài về phía Đông Nam Á xuyên suốt từ Đông Bắc Ấn Độ qua Vân Nam ( TQ), Myanmar  xuống Việt Nam, Lào, Thái Lan – nơi ngày nay người ta tìm thấy rất nhiều câu trà cổ thụ thân cao lớn tới hàng trăm năm tuổi có điều kiện lý tưởng tương đồng: độ cao so với mặt nước biển từ 1200- 2500m, nhiều ánh sáng mặt trời nhưng không trực tiếp, độ ẩm cao, nhiệt độ trung bình trong ngày từ 16-28 độ C, không chịu quá lạnh, bề mặt đất dễ thoát nước…

Blog-2-Moc-Chau
Đồi trà oolong ở Mộc Châu

Vùng trà cổ thụ nguyên sơ rộng lớn của Việt Nam tập trung rải rác ở các tỉnh Tây Bắc và Hà Giang  chủ yếu do người đồng bào thiểu số H’Mông, Dao bản địa dùng làm thuốc hay đồ uống  từ xa xưa.  Người Pháp tới vào thế kỷ 19, chính thức đưa cây chè trở thành cây nông nghiệp có giá trị bằng việc mở Viện nghiên cứu, nhân giống tại Phú Thọ ( miền Bắc) và Cầu Đất ( miền Nam) từ đó lan rộng cây chè ra nhiều tỉnh lân cận khắp cả nước.Ở một số vùng Hà Giang trước kia nhiều người già kể lại: “ cây chè ngày xưa có giá trị lắm, hơn lúa thóc nhiều, mỗi tháng mà nộp được 2 bao chè ( 50kg tôi đoán) là không phải đi lao động nữa rồi”, tức là khỏi nộp tô thuế nặng nề khổ sở. Còn ngày nay thì sao? “ Mấy năm gần đây mới có phong trào làm chè trở lại, người ta hái người ta làm thì mình làm thôi, mà không ăn thua, vẫn nghèo lắm” anh chia sẻ.

Blog-2-Yen-Bai
Một góc sườn núi bạt ngàn trà Yên Bái

Trước kia, theo dòng vận chuyển trà từ vùng núi về xuôi, người Hà Nội lấy trà đóng bánh lớn tách rời ướp với sen Tây Hồ mà tôi đoán là trà Phổ Nhĩ sống non. Bởi dựa trên cách chế biến của người bà con đồng bào kể lại – sao nhẹ trên chảo, vò sơ nhanh rồi phơi nắng 2-3 nắng, ẩm ẩm thì nén lại thành bánh hong gió tránh mốc. Thêm nữa lấy ít Phổ Nhĩ Hà Giang cho các ông cụ bà cụ đã ướp sen mấy chục năm nay uống thì họ gật đầu như tìm được bạn trăm năm: “ đúng rồi, chè này ngày xưa hay ướp đấy, nước pha ra màu vàng vàng đỏ đỏ chứ không xanh như trà bây giờ”. Những năm 1970 sau đó xuất hiện xe ca ( ô tô lớn) thì gửi trà bồm lá rời lớn trong bao tải về Hà Nội, chứ không còn đóng bánh nữa. Tuy nhiên sau 1980, việc Thái Nguyên, Phú Thọ đi đầu về trồng và làm ra các loại trà xanh phẩm cấp tốt hơn cộng thêm giao thông nghèo nàn, điều kiện vận chuyển khó khăn nên con đường trà cổ thụ từ vùng cao gần như không phổ biến, chủ yếu người dân uống trà xanh làm từ các tỉnh trung du miền Bắc hay Lâm Đồng ở miền Nam. Đi qua nhiều vùng đất làm trà từ Bắc tới Nam tôi thấy người Thái Nguyên nói chung, người Tân Cương và vùng lân cận nói riêng là những con người nông dân làm trà xuất sắc nhất, họ biết chính xác họ đang làm gì, trồng cây gì, giống gì, tăng sản lượng bằng cách nào, biến đổi phương thức chế biến ngoạn mục theo nhiều tiêu chí khác nhau. Vì thế đâu đâu cũng nức tiếng trà Thái Nguyên, nó chẳng hề kém cạnh với những loại trà xanh trứ danh ở nước ngoài mà bao người vẫn khen, có khác chăng nó xuất phát từ Việt Nam.

Những năm 90, với xu hướng chào đón đầu tư rộng mở phía Nam, người Đài Loan sang đầu tư tại Lâm Đồng trồng nhiều cây chè oolong làm thị trường trà Việt Nam trở nên phong phú hơn. Gần đây, làn sóng đầu tư trồng làm trà oolong ra phía Bắc tăng lên một cách âm thầm, cũng dễ hiểu vì kinh tế nông nghiệp cởi mở hơn, điều kiện tự nhiên tốt hơn cho ra những loại trà xuất sắc hơn. Với làn sóng chung như vậy, trà cổ thụ vùng cao được đưa lại gần hơn với giới uống trà vùng xuôi vào tận Sài Gòn. Việc làm trà thay đổi theo từng năm, mới 2011 đi qua những cung đường Hồ Thào, Nậm Ty, Thông Nguyên của Hoàng Su Phì, hay Thượng Sơn, Cao Bồ của Vị Xuyên ở Hà Giang còn heo hút lắm vậy mà năm nay 2017 thấp thoáng những cơ sở nhỏ, vừa đang miệt mài sao trà, nào trà xanh, nào trà đen. Tôi thấy đây là một tín hiệu đáng mừng cho trà Việt Nam.

Blog-2-Bao-Loc
Đồi trà oolong ở Bảo Lộc

Trà chất lượng cao đem lại giá trị kinh tế rất lớn. Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu trà lớn nhất thế giới, vậy mà thương hiệu trà xuất xứ từ nước này vẫn khá xa lạ đối với người uống trà trên thế giới. Vì đa phần các loại trà xuất khẩu phục vụ hòa trộn với các loại trà khác ( blend teas) cho thương hiệu nước ngoài không đề cập nguồn gốc, đóng túi lọc. Sáng sủa hơn là một số sản phẩm trà trắng,  oolong, trà đen chỉn chủ hơn rất nhiều lại tự kết liễu mình dưới một cái tên “ Made in không phải Vietnam” có giá trị thương mại cao hơn. Vì đâu nên nỗi này? Theo tôi nghĩ phần nhiều nước ta khá có tiếng với các sản phẩm bị lạm dụng bón phân hóa học hay phun thuốc trừ sâu, kích thích tối đa hóa sản lượng do những người nông dân chưa được chỉ dẫn một cách nghiêm túc dẫn đến thiếu hiểu biết tất yếu sẽ thiếu trách nhiệm tạo nên ấn tượng xấu về trà Việt.  Ngoài ra, góp phần không nhỏ là thiếu sự xây dựng quảng bá chuyên nghiệp có tính định hướng rõ ràng từ cấp quốc gia cho tới đơn vị kinh doanh lớn nhỏ trong nước.

Luôn có những sản phẩm tốt và sản phẩm xấu cùng tồn tại. Chúng ta có cả một vùng nguyên liệu tự nhiên rộng lớn ở Tây Bắc thu hái từ người đồng bào hồn nhiên, những người nông dân thông minh, sáng tạo sản xuất ở Thái Nguyên, những chuyên gia đầy kiến thức chuyên môn sâu sắc trong sản xuất trà đương rảnh rỗi đâu đó, kinh nghiệm sản xuất trà oolong tích lũy hơn 20 năm, Việt Nam có đầy đủ yếu tố cần thiết tạo nên một vị thế ấn tượng hơn trên bản đồ trà thế giới. Và đó cũng chính là thách thức đang chờ đợi chúng ta.

Về tôi, về trà và ước mơ

Mọi người hay hỏi: “ tại sao là trà mà không phải một sản phẩm nào khác?”.

Là cựu sinh viên chuyên ngôn ngữ, người ta thường liên tưởng trực tiếp tôi sẽ làm một cô phiên dịch nhanh nhẹn hay làm tại một công ty liên doanh nước ngoài…

Lớn lên ở tỉnh miền núi phía Bắc, hầu hết các gia đình ngâm lá vối, chè tươi, nhân trần uống thay nước trắng, hay ấm trà nóng sau bữa ăn cả nhà quây quần bên nhau thật ấm cúng. Có lẽ vậy uống trà trở nên thân thuộc, dễ chịu một cách tự nhiên.

DSC_0193Tuổi 20, ở Hà Nội, phố nhỏ ngõ nhỏ, nét xưa cũ trầm mặc lẩn khuất trong chính những ồn ào náo nhiệt cuốn hút tôi một cách lạ lùng. Những buổi dạo chơi phố phường, ngồi hàng giờ nhâm nhi chầm chậm từng cốc trà nóng nơi góc phố nhỏ, rộng mở dưới tán cây cổ thụ, ngắm dòng người qua lại – những buổi một mình, cùng bạn bè thân chia sẻ ấm trà ở những quán trà cũ lặng lẽ yên bình – từng chén trà kết nối tôi xúc chạm với cảnh vật, con người xung quanh một cách ý nhị hơn.

Và tôi đi, tôi thấy đồi trà trải dài khắp các nẻo đường ở Phú Thọ, Cao Bằng, Lào Cai, Yên Bái, Thái Nguyên… Tình cờ một khoảng thời gian ngắn ngủi tôi ở cùng gia đình một trong những người đầu tiên đem trà về Tân Cương, Thái Nguyên trồng, tôi nhận rõ hơn sự lao động vất vả, nhọc nhằn của người nông dân đầy tâm huyết trồng nên cây chè, chăm sóc, hái, sao sấy để chúng ta có thể ngồi bất kỳ đâu thưởng thức một chén trà mộc mạc, thi vị. Lên vùng cao, một cánh cửa mở toang trước mắt, tôi thấy thế giới rộng lớn, bao la những cây trà cổ thụ hoang sơ bạt ngàn khắp các nẻo rừng núi hiện diện ở đây hàng trăm hàng nghìn năm, tôi thấy bóng dáng những người anh hùng nhỏ bé thầm lặng sống một cuộc sống vất vả một cách hồn nhiên nhất, vui vẻ nhất, tự do nhất. Chén trà kết tinh từ những chiếc lá đậm nét cá tính mạnh mẽ núi rừng thu hái từ bàn tay xù xì và chế biến truyền thống với tâm thái hồn nhiên, nhẹ nhàng. Một ấn tượng mạnh mẽ hằn sâu trong tâm trí.

Đi và gặp, tôi hay hỏi:
“Bạn có thích uống trà không?” – “ Có, tôi thích uống trà lắm!”
“Bạn uống trà Việt Nam bao giờ chưa?” – “Hình như chưa bao giờ.”
“Bạn có biết gì về trà Việt Nam hay không?” – Bối rối lắc đầu.

Với người uống trà trên thế giới, dường như không mấy người có khái niệm về trà Việt Nam. Hay nhiều người Việt vẫn mơ hồ về thứ đồ uống quen thuộc này. Sao vậy nhỉ?

Tôi đi Trung Quốc, Ấn Độ, thăm những vùng trà nổi tiếng từ Vân Nam đến Assam, Darjeeling, cảm thấy thích thú vô cùng. Từ một cây trà có thể làm ra bao nhiêu loại trà có hương vị, sắc thái khác nhau. Có nhiều điểm chung về khí hậu, thổ nhưỡng, địa hình, lịch sử giữa các vùng trà nổi tiếng tạo nên loại trà đặc biệt mang bản sắc riêng. Việt Nam có đủ các yếu tố trên, song tại sao trà Việt Nam vẫn là một dấu hỏi chất chứa cả sự hoài nghi.

Tôi trẻ, uống trà, yêu cây chè. Tại sao tôi không làm một điều gì đó, đánh thức sự hiểu biết sâu sắc của trà Việt Nam trên bản đồ trà thế giới?

Xây dựng nên các loại trà thuần túy, thanh khiết, hương vị nguyên bản tự nhiên, thân thiện bền vững với cây chè, với môi trường sinh thái. Xây dựng mối quan hệ tương tác sâu sắc với người nông dân, đồng bào miền núi để chúng tôi luôn cải thiện, luôn đổi mới, luôn sáng tạo. Tôi tin theo thời gian tôi và các bạn sẽ tạo nên giá trị riêng của trà Việt Nam.